Les mythes sur Churchill et une mauvaise histoire ne sont pas une raison pour défendre la CEDH

Churchill myths and bad history are no reason to defend the ECHR

Les mythes sur Churchill et une mauvaise histoire ne sont pas une raison pour défendre la CEDH

Les défenseurs de la Convention européenne des droits de l'homme, de John Major à Keir Starmer, ont propagé l'idée fausse que Winston Churchill en était le cerveau. Il n'en était rien, soutient Yuan Yi Zhu

Six décennies après sa mort, la légende de Sir Winston Churchill reste intacte. Presque tous ses contemporains sont passés dans l'histoire. C'est probablement pourquoi de nombreux défenseurs de la Convention européenne des droits de l'homme (CEDH) l'invoquent régulièrement pour défendre la continuité de l'adhésion britannique.

Selon leur version de l'histoire, répétée par des personnalités aussi différentes que Sir Keir Starmer, Sir John Major et la baronne Chakrabarti, Churchill était le cerveau derrière la CEDH ainsi que la Cour européenne des droits de l'homme, qu'il concevait comme un rempart pour le monde libre contre le totalitarisme. Quitter la Convention trahirait sa mémoire, ainsi que le « vrai » conservatisme incarné par Churchill.

Mais comme le montre mon article avec le Dr Conor Casey pour Policy Exchange, les affirmations selon lesquelles le départ de la Convention serait une « trahison » de l'héritage de Churchill sont absurdes.

D'une part, c'est le gouvernement travailliste de Clement Attlee, et non Churchill, qui a fait entrer la Grande-Bretagne dans la CEDH en 1950. Churchill était alors encore dans l'opposition, et bien qu'il ait soutenu le projet rhétoriquement, il n'était ni disposé ni capable d'expliquer comment le régime fonctionnerait en pratique. Quant à la Cour de Strasbourg, de toutes ses déclarations publiques, il n'y a fait référence que deux fois. Churchill était beaucoup de choses. Mais « architecte » de la Convention européenne des droits de l'homme, il ne l'était pas.

C'est plutôt le gouvernement social-démocrate d'Attlee qui a fait entrer la Grande-Bretagne dans la Convention et en a négocié les détails. Contrairement à leurs homologues modernes, les ministres travaillistes de l'époque n'étaient pas enthousiastes à l'égard du projet, et beaucoup s'opposaient à l'adhésion britannique à la CEDH au motif qu'elle entraverait le programme économique du Labour, ainsi que nuire à la Common Law. En fin de compte, ils ont accepté la Convention à contrecœur, et avec une série de « dérogations », la plus importante étant le refus d'accepter la juridiction de la Cour européenne des droits de l'homme.

Churchill n'était pas un défenseur de la CEDH

Lorsque Churchill est revenu au pouvoir en 1951, il n'a rien fait pour faire avancer la cause de la CEDH. Son gouvernement a refusé de permettre à la Cour de Strasbourg d'avoir une juridiction sur le Royaume-Uni et de permettre aux individus de saisir le Conseil de l'Europe pour obtenir réparation. Selon les mots d'un universitaire, Churchill et ses collègues conservateurs « estimaient que, une fois au pouvoir, ils n'avaient pas besoin de défense supplémentaire des droits de l'homme à la maison ».

Certains sont allés encore plus loin. Lorsque la Grèce a invoqué avec succès la Convention pour envoyer une commission d'enquête dans l'ancienne colonie britannique de Chypre pour enquêter sur les plaintes grecques, le ministre des Affaires étrangères Selwyn Lloyd « a exprimé sa consternation et son incrédulité que la Convention ait pu nous mettre dans cette situation, et encore plus d'incrédulité qu'elle s'applique à tant de colonies ». Il a immédiatement ordonné aux fonctionnaires de préparer un éventuel retrait britannique de la Convention.

De plus, la CEDH de 1950 est radicalement différente de la CEDH de 2025. En 1950, la juridiction de la Cour européenne des droits de l'homme était entièrement facultative et n'a été acceptée par le Royaume-Uni qu'en 1966. La juridiction de la Cour est maintenant obligatoire. Plus important encore, la CEDH a été signée avant que la Cour de Strasbourg n'invente la doctrine de « l'instrument vivant » à la fin des années 1970. Grâce à cette doctrine, la Cour s'est engagée dans une création de lois extravagante qui a unilatéralement transformé la CEDH en quelque chose que peu de ses rédacteurs auraient reconnu ou soutenu.

Les affirmations selon lesquelles la CEDH telle qu'elle existe aujourd'hui peut être considérée comme l'un des héritages de Churchill sont tout simplement fausses et ne sont pas étayées par les archives historiques. Que l'on pense ou non que les vues de Churchill sont même pertinentes pour ce que nous devrions faire de la CEDH aujourd'hui, de telles discussions doivent être basées sur une bonne histoire et non sur le récit mythique propagé par de nombreux défenseurs de la Convention.

Yuan Yi Zhu est chercheur principal à Policy Exchange. Son article pour Policy Exchange 'Revisiting the British Origins of the European Convention on Human Rights' peut être lu ici.

Những huyền thoại về Churchill và lịch sử tồi không phải là lý do để bảo vệ CEDH

Những người bảo vệ Công ước châu Âu về nhân quyền, từ John Major đến Keir Starmer, đã lan truyền sai lầm rằng Winston Churchill là người đứng sau nó. Ông ấy không phải như vậy, Yuan Yi Zhu lập luận

Sáu thập kỷ sau khi qua đời, huyền thoại về Sir Winston Churchill vẫn không suy giảm. Hầu hết những người cùng thời với ông đã chìm vào quên lãng. Đây có lẽ là lý do tại sao nhiều người bảo vệ Công ước châu Âu về nhân quyền (ECHR) thường xuyên viện dẫn ông để bảo vệ việc Anh tiếp tục là thành viên.

Theo phiên bản lịch sử của họ, được lặp lại bởi những nhân vật khác nhau như Sir Keir Starmer, Sir John Major và Nam tước Chakrabarti, Churchill là bộ não đứng sau ECHR cũng như Tòa án Nhân quyền châu Âu, mà ông coi là một pháo đài cho thế giới tự do chống lại chủ nghĩa toàn trị. Rời bỏ Công ước sẽ phản bội ký ức của ông, cũng như chủ nghĩa Bảo thủ "thực sự" được thể hiện bởi Churchill.

Nhưng như bài báo của tôi với Tiến sĩ Conor Casey cho Policy Exchange cho thấy, những tuyên bố rằng việc Anh rời bỏ Công ước sẽ là một "sự phản bội" đối với di sản của Churchill là vô nghĩa.

Một điều nữa, đó là chính phủ Lao động của Clement Attlee, chứ không phải Churchill, đã đưa Anh vào ECHR vào năm 1950. Churchill khi đó vẫn còn trong phe đối lập, và mặc dù ông ủng hộ dự án bằng lời nói, ông không sẵn lòng hoặc không thể giải thích cách chế độ sẽ hoạt động trong thực tế. Đối với Tòa án Strasbourg, trong tất cả các nhận xét công khai của mình, ông chỉ đề cập đến nó hai lần. Churchill là nhiều thứ. Nhưng "kiến trúc sư" của Công ước châu Âu về nhân quyền thì không phải.

Thay vào đó, chính phủ dân chủ xã hội của Attlee đã đưa Anh vào Công ước và đàm phán các chi tiết của nó. Không giống như các đồng nghiệp hiện đại của họ, các Bộ trưởng Lao động thời đó không nhiệt tình với dự án, và nhiều người phản đối việc Anh gia nhập ECHR với lý do nó sẽ cản trở chương trình kinh tế của Lao động, cũng như gây hại cho Luật chung. Cuối cùng, họ miễn cưỡng chấp nhận Công ước, và với một loạt các "ngoại lệ", quan trọng nhất là từ chối chấp nhận thẩm quyền của Tòa án Nhân quyền châu Âu.

Churchill không phải là người bảo vệ ECHR

Khi Churchill trở lại nắm quyền vào năm 1951, ông đã không làm gì để thúc đẩy sự nghiệp của ECHR. Chính phủ của ông đã từ chối cho phép Tòa án Strasbourg có thẩm quyền đối với Vương quốc Anh và cho phép các cá nhân khiếu nại lên Hội đồng châu Âu để được bồi thường. Theo lời của một học giả, Churchill và các đồng nghiệp Bảo thủ của ông "cảm thấy rằng, một khi nắm quyền, họ không cần thêm bất kỳ sự bảo vệ nào về nhân quyền trong nước".

Một số thậm chí còn đi xa hơn. Khi Hy Lạp thành công trong việc viện dẫn Công ước để gửi một ủy ban điều tra đến thuộc địa cũ của Anh là Cyprus để điều tra các khiếu nại của Hy Lạp, Ngoại trưởng Selwyn Lloyd "đã bày tỏ sự kinh ngạc và không tin rằng Công ước có thể đưa chúng ta vào tình thế này, và càng không tin hơn khi nó áp dụng cho rất nhiều thuộc địa". Ông ngay lập tức ra lệnh cho các công chức chuẩn bị cho một khả năng Anh rút khỏi Công ước.

Hơn nữa, ECHR năm 1950 hoàn toàn khác với ECHR năm 2025. Năm 1950, thẩm quyền của Tòa án Nhân quyền châu Âu hoàn toàn là tùy chọn và chỉ được Anh chấp nhận vào năm 1966. Thẩm quyền của Tòa án hiện là bắt buộc. Quan trọng hơn, ECHR đã được ký kết trước khi Tòa án Strasbourg phát minh ra học thuyết "công cụ sống" vào cuối những năm 1970. Thông qua học thuyết này, Tòa án đã tham gia vào việc tạo ra luật pháp phóng khoáng đã đơn phương biến ECHR thành một thứ mà ít người soạn thảo của nó có thể nhận ra hoặc ủng hộ.

Các tuyên bố rằng ECHR như nó tồn tại ngày nay có thể được coi là một trong những di sản của Churchill đơn giản là sai và không được hỗ trợ bởi hồ sơ lịch sử. Cho dù người ta có nghĩ rằng quan điểm của Churchill thậm chí có liên quan đến những gì chúng ta nên làm với ECHR ngày nay hay không, những cuộc thảo luận như vậy phải dựa trên lịch sử tốt chứ không phải là tài khoản huyền thoại được lan truyền bởi nhiều người bảo vệ Công ước.

Yuan Yi Zhu là Nghiên cứu viên cao cấp tại Policy Exchange. Bài báo Policy Exchange của ông 'Revisiting the British Origins of the European Convention on Human Rights' có thể được đọc tại đây.