L'IA transforme les planeurs sous-marins en satellites de surveillance des océans

AI turns sea gliders into the surveillance satellites of the sea

L'IA transforme les planeurs sous-marins en satellites de surveillance des océans

Les océans de demain pourraient voir leur sécurité sous-marine radicalement transformée grâce à l'intelligence artificielle. Celle-ci, combinée à des planeurs sous-marins autonomes, pourrait créer des flottes intelligentes de capteurs mobiles redéfinissant le renseignement naval en traquant les menaces océaniques. Tout comme les satellites de surveillance ont révolutionné la guerre de surface, le renseignement et la diplomatie, ces nouvelles plateformes sous-marines intelligentes pourraient bientôt en faire autant pour les océans du monde.

Il y a cent ans, le brouillard de la guerre était si épais qu'il serait presque incompréhensible pour un commandant militaire ou un officier du renseignement moderne. Ce qui se passait derrière une colline ou aux frontières d'une nation restait inconnu. Des armées entières pouvaient être cachées, des flottes de navires de guerre disparaissaient en haute mer, et même des villes entières pouvaient être construites dans l'arrière-pays sans que personne ne le sache. Les services de renseignement devaient travailler sans relâche pour recueillir chaque information, même les rumeurs, afin d'obtenir des données économiques de base sur un autre pays – sans parler de ses secrets.

Tout a changé dans les années 1960 avec le développement des satellites de surveillance. D'abord conçus par les États-Unis et l'URSS, ces yeux dans le ciel, gouvernementaux et privés, sont devenus de plus en plus sophistiqués et nombreux. En conséquence, la surface de la terre et des océans est désormais un livre ouvert que quiconque disposant d'une connexion internet peut consulter, au point où l'échec embarrassant du lancement d'une frégate nord-coréenne devient instantanément une nouvelle mondiale plutôt qu'une vague rumeur.

Des entreprises comme Helsing, basée à Munich, espèrent faire de même pour le monde sous-marin. Peut-être pas à la même échelle, mais comme moyen de mieux protéger des infrastructures vitales telles que les câbles de communication et d'énergie sous-marins, les pipelines et les sites pétroliers, tout en surveillant les menaces potentielles et en suivant le trafic maritime croissant des voies navigables mondiales.

Helsing a dévoilé un nouveau système de surveillance sous-marine basé sur ses produits : la plateforme logicielle Lura et le planeur sous-marin SG-1 Fathom. Lura est un système d'IA qui fait pour l'acoustique ce que les modèles de langage étendus font pour les mots. Formé sur des décennies de données acoustiques constamment mises à jour, le Large Acoustic Model (LAM) de Lura est capable non seulement de détecter des schémas de menace et d'interpréter une vaste gamme de bruits sous-marins en temps réel, mais il pourrait même identifier des engins individuels par leurs signatures acoustiques uniques – un peu comme un opérateur sonar expérimenté peut distinguer un sous-marin d'un autre par son sillage.

Selon l'entreprise, Lura est non seulement très sensible et précis, mais il peut traiter les données 40 fois plus vite qu'un opérateur humain, bien que de nombreux détails de son architecture restent confidentiels. L'autre moitié de l'équipe est le SG-1 Fathom, un planeur sous-marin autonome capable d'opérer indépendamment du contrôle humain pour exécuter des missions pré-planifiées en tant que plateforme de capteurs mobiles alimentant Lura en données.

En tant que planeur marin, Fathom se propulse en remontant près de la surface grâce à des changements de flottabilité, puis utilise des foils pour avancer et se diriger dans la direction souhaitée tout en redescendant silencieusement dans les profondeurs. Un avantage clé de cet engin est son coût relativement faible et sa capacité à être produit en masse par centaines, permettant ainsi de déployer des groupes entiers de Fathoms pour surveiller des zones ciblées 24h/24 et 7j/7.

Silencieux et économe en énergie grâce à sa conception de planeur, Fathom est adapté aux missions de longue durée pouvant aller jusqu'à trois mois. Compact, il mesure seulement 195 cm de long, avec un diamètre de 28 cm et un poids de 60 kg. Cependant, il n'est pas particulièrement rapide, avec une vitesse maximale de seulement 2 nœuds (3,7 km/h). La portée et la profondeur opérationnelle restent des informations que Helsing préfère garder secrètes.

Si cette technologie se concrétise, le nouveau système Lura/Fathom pourrait représenter une mise à jour considérable par rapport au système américain SOSUS datant de la Guerre froide, ainsi qu'aux autres systèmes de surveillance sous-marine. Selon Helsing, l'objectif est de créer un jumeau numérique de l'océan grâce à un flux de données continu et complet sur le trafic et les activités sous-marines. Cela permettrait une capacité de surveillance plus fine, autonome, évolutive et basée sur les données, capable de détecter rapidement les menaces sous-marines croissantes et d'aider à les contrer, tout en permettant à un seul opérateur humain de surveiller des centaines de planeurs.

« Lura détecte pour que nos marines puissent dissuader », a déclaré Gundbert Scherf, cofondateur et co-PDG de Helsing. « Nous devons exploiter les nouvelles technologies pour suivre le rythme des menaces contre nos infrastructures critiques, nos eaux territoriales et notre mode de vie. Déployer l'IA aux confins des constellations sous-marines illuminera les océans et dissuadera nos adversaires, pour une Europe forte. »

AI biến tàu lượn biển thành vệ tinh giám sát đại dương

Đại dương ngày mai có thể chứng kiến sự thay đổi căn bản trong an ninh dưới nước khi AI kết hợp với tàu lượn tự hành tạo ra những hạm đội cảm biến di động thông minh, định nghĩa lại ngành tình báo hải quân trong việc phát hiện mối đe dọa đại dương. Giống như vệ tinh giám sát đã cách mạng hóa chiến tranh mặt đất, tình báo và ngoại giao, các nền tảng thông minh dưới nước mới cũng sắp làm điều tương tự với đại dương toàn cầu.

Một trăm năm trước, sương mù chiến tranh dày đặc đến mức khó hiểu với chỉ huy quân sự hay sĩ quan tình báo hiện đại. Những gì nằm sau ngọn đồi là bí ẩn, hoạt động sau biên giới quốc gia là không thể nắm bắt. Toàn bộ quân đội có thể ẩn mình, hạm đội chiến hạm biến mất ngoài khơi, thậm chí cả thành phố xây dựng ở vùng sâu vẫn giữ kín. Không lạ khi cơ quan tình báo phải làm việc cật lực thu thập từng mảnh thông tin, cả tin đồn, chỉ để biết số liệu kinh tế cơ bản của nước khác – chưa nói đến bí mật quốc gia.

Mọi thứ thay đổi từ thập niên 1960 với sự phát triển của vệ tinh giám sát. Được Mỹ và Liên Xô tiên phong, những con mắt trên trời này, cả chính phủ lẫn tư nhân, ngày càng tinh vi và đông đảo. Kết quả là bề mặt đất liền và biển cả giờ như cuốn sách mở mà bất kỳ ai có internet đều đọc được, đến mức vụ phóng tàu chiến Triều Tiên thất bại lập tức thành tin toàn cầu thay vì lời đồn mơ hồ.

Công ty như Helsing (trụ sở Munich) kỳ vọng làm điều tương tự với thế giới dưới nước. Có lẽ không quy mô bằng, nhưng là cách bảo vệ tốt hơn tài sản trọng yếu như cáp viễn thông, cáp điện ngầm, đường ống dẫn dầu, cùng giám sát mối đe dọa tiềm tàng và theo dõi lưu lượng hàng hải ngày càng tăng trên các tuyến đường biển.

Helsing vừa công bố hệ thống giám sát dưới nước mới dựa trên nền tảng phần mềm Lura và tàu lượn biển SG-1 Fathom. Lura là hệ thống AI xử lý âm thanh như mô hình ngôn ngữ lớn xử lý chữ. Được huấn luyện bằng dữ liệu âm học hàng thập kỷ liên tục cập nhật, Large Acoustic Model (LAM) của Lura không chỉ phát hiện mẫu đe dọa và phân tích đa dạng âm thanh dưới nước thời gian thực, mà còn được cho là nhận diện từng phương tiện qua dấu hiệu âm thanh độc nhất – như chuyên gia sonar phân biệt tàu ngầm qua tiếng chân vịt.

Theo công ty, Lura không cực kỳ nhạy và chính xác, mà còn xử lý dữ liệu nhanh gấp 40 lần người vận hành, dù nhiều chi tiết kiến trúc vẫn là bí mật. Nửa còn lại là SG-1 Fathom, tàu lượn dưới nước tự hành hoạt động độc lập, thực hiện nhiệm vụ định sẵn như nền tảng cảm biến di động cung cấp dữ liệu cho Lura.

Là tàu lượn biển, Fathom di chuyển bằng cách nổi lên gần mặt nước nhờ thay đổi lực nổi, dùng cánh lái để tiến và định hướng khi lặn xuống thầm lặng. Điểm mấu chốt là chi phí thấp và sản xuất hàng loạt hàng trăm chiếc, cho phép triển khai đồng loạt Fathom giám sát khu vực 24/7. Không chỉ im lặng, thiết kế lượn giúp tiết kiệm năng lượng, phù hợp nhiệm vụ dài ngày đến ba tháng. Kích thước gọn nhẹ: dài 195cm, đường kính 28cm, nặng 60kg. Tuy nhiên, tốc độ tối đa chỉ 2 hải lý/giờ (3,7km/h). Tầm hoạt động và độ sâu vẫn là thông tin Helsing giữ kín.

Nếu thành công, hệ thống Lura/Fathom mới sẽ là bản nâng cấp đáng kể so với hệ thống SOSUS của Mỹ từ thời Chiến tranh Lạnh, cùng các hệ thống giám sát dưới nước khác. Mục tiêu của Helsing là tạo bản sao kỹ thuật số đại dương thông qua dòng dữ liệu liên tục, toàn diện về hoạt động dưới nước. Điều này cho phép năng lực giám sát tinh vi hơn – tự động, mở rộng và dữ liệu dẫn đường – nhanh chóng phát hiện và hỗ trợ đối phó mối đe dọa leo thang, đồng thời để một người vận hành theo dõi hàng trăm tàu lượn.

"Lura phát hiện để hải quân chúng ta răn đe", Gundbert Scherf, Đồng sáng lập kiêm Đồng CEO Helsing phát biểu. "Chúng ta phải tận dụng công nghệ mới để theo kịp các mối đe dọa nhắm vào cơ sở hạ tầng trọng yếu, vùng biển quốc gia và lối sống. Triển khai AI tới biên giới mạng lưới dưới nước sẽ soi sáng đại dương và răn đe đối thủ, vì một châu Âu vững mạnh."